Kết nối với chúng tôi

Kinh doanh

BRICS nhắm mục tiêu giảm phụ thuộc vào USD

Được phát hành

on

Tại hội nghị thượng đỉnh tuần này, Phó tổng thống Nam Phi Paul Mashatile cho biết BRICS sẽ tập trung tìm cách để giảm phụ thuộc USD.

Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 15 của BRICS – tổ chức của Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi – khai mạc hôm 22/8. Nội dung chính cuộc gặp lần này là xem xét các cách để tăng cường thanh toán bằng tiền tệ của các thành viên. Về lâu dài, ý tưởng là tung ra một loại tiền tệ chung để thách thức USD.

Phó tổng thống Nam Phi Paul Mashatile cho rằng thế giới chú ý đến BRICS vì khối này đang đi đầu trong trong các cuộc thảo luận toàn cầu nhằm giảm sự phụ thuộc vào USD. “Chúng tôi không ở đây để cạnh tranh với phương Tây. Chúng tôi muốn không gian của mình trong kinh doanh toàn cầu”, ông Paul nói hôm 21/8.

Cách đây gần tròn một năm, ngày 24/8/2022, Chủ tịch Diễn đàn Quốc tế BRICS Purnima Anand cho biết Ấn Độ và Nga đã thiết lập cơ chế thanh toán bằng ruble và rupee, không còn cần USD.

Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva cũng ủng hộ một đồng tiền chung cho thương mại trong khối Nam Mỹ và giữa các quốc gia BRICS. “Tại sao Brazil cần USD để giao dịch với Trung Quốc hoặc Argentina? Chúng tôi có thể giao dịch bằng đồng tiền của mình”, ông nói trong tháng này.

Trước đó, tại cuộc họp của các bộ trưởng ngoại giao BRICS vào tháng 6, Ngoại trưởng Nam Phi Naledi Pandor cho biết Ngân hàng Phát triển Mới (NDB) của khối sẽ tìm kiếm các giải pháp thay thế “đối với các loại tiền tệ được giao dịch quốc tế hiện tại”, tức ám chỉ USD. Một số quốc gia ngoài BRICS cũng đang tỏ ra muốn giảm phụ thuộc vào USD.

“Tôi muốn mua hàng từ Ấn Độ. Tại sao tôi phải sử dụng USD?”, cựu Tổng thống Nigeria Olusegun Obasanjo từng đặt vấn đề ở một tọa đàm. Theo ông, nước này cần một hệ thống thanh toán cho phép tôi mua bất cứ thứ gì cần thiết từ Ấn Độ, Brazil, mà không cần dùng USD.

Ngoài thảo luận về giảm phụ thuộc USD, hội nghị thượng đỉnh lần này sẽ bàn bạc về khả năng mở rộng thành viên. Bloomberg Economics ước tính nếu khối mở rộng thì sẽ chiếm khoảng một nửa sản lượng toàn cầu vào năm 2040, gấp đôi thị phần của G7. Đó sẽ là dấu mốc đảo ngược so với đầu thế kỷ 21. BRICS hy vọng chính sức mạnh ngày càng tăng sẽ giúp họ giảm sự phụ thuộc vào đồng bạc xanh.

Nhóm BRICS có từ năm 2009. Ban đầu, tổ chức chỉ là BRIC – thuật ngữ do nhà kinh tế Jim O’Neill của Goldman Sachs đặt ra để chỉ các nền kinh tế mới nổi gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Nam Phi tham gia vào năm 2010, thêm chữ “S” vào tên. Hơn 20 quốc gia – bao gồm Arab Saudi, Iran và Venezuela – đã bày tỏ sự quan tâm đến việc gia nhập BRICS.

Bất chấp nhiều lần thảo luận về việc sẽ tung ra đồng tiền riêng, chưa có đề xuất cụ thể nào được BRICS nêu ra. Nỗ lực lớn nhất đến nay là năm 2015 thành lập NDB – một giải pháp thay thế cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới do Mỹ và châu Âu thống trị.

Tuy nhiên, sau 8 năm hoạt động, NDB chỉ cho vay 32,8 tỷ USD trong tám năm hoạt động, là một phần rất nhỏ so với số tiền mà IMF và Ngân hàng Thế giới đã giải ngân trong cùng khoảng thời gian.

Theo các chuyên gia, dù có những điểm yếu hoặc một số quốc gia không muốn phụ thuộc nhưng các lựa chọn thay thế cho USD lại không dễ có. “Cuối cùng, nếu muốn giữ an toàn cho khoản dự trữ của mình, bạn phải chuyển nó sang USD”, Daniel Bradlow, nghiên cứu viên cao cấp tại Đại học Pretoria và một luật sư chuyên về tài chính quốc tế, bình luận.

Theo tính toán của các nhà nghiên cứu tại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, 96% giao dịch ở châu Mỹ từ năm 1999 đến năm 2019 được thanh toán bằng USD. Tỷ lệ này là 74% ở châu Á và 79% ở mọi nơi khác ngoài châu Âu – nơi sử dụng đồng euro.

Tuy nhiên, vai trò của USD với thương mại toàn cầu đã phần nào giảm bớt trong những năm gần đây khi các ngân hàng, doanh nghiệp và nhà đầu tư chuyển sang sử dụng euro và đồng nhân dân tệ. Vào tháng 6, tập đoàn tài chính BNP Paribas (Pháp) nhận định trong một phân tích rằng các lợi thế để USD thống trị trong thương mại toàn cầu đã giảm bớt, ngay cả khi quá trình này diễn ra chậm.

Nhưng 24 năm sau khi ra đời, euro – đồng tiền số 2 thế giới vẫn không cạnh tranh được với USD về sức hấp dẫn quốc tế. USD được sử dụng trong số lượng giao dịch ngoại hối nhiều gấp ba lần euro, theo báo cáo của nhà kinh tế học Jeffrey Frankel tại Đại học Harvard. Trong khi đó, nhân dân tệ bị hạn chế do Bắc Kinh từ chối để đồng tiền này được giao dịch tự do trên thị trường thế giới.

Mihaela Papa, thành viên cấp cao tại Trường Quan hệ Toàn cầu Fletcher của Đại học Tufts (Mỹ) cho rằng không có lựa chọn thay thế nào ngoài USD có thể đạt được vị trí đồng tiền thống trị toàn cầu. Vì vậy, không thể sau một đêm mà có loại tiền tệ mới của BRICS vì cần có thời gian, xây dựng độ tin cậy. “Tôi thấy con đường còn rất dài”, chuyên gia nói.

Phiên An (theo Bloomberg, AP)


Tiếp tục đọc
Bấm để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Kinh doanh

Sắt thép nhập từ Anh tăng 12 lần trong tháng 8

Được phát hành

on

Tháng 8, Việt Nam nhập khẩu hơn 1.000 tấn sắt thép các loại từ Anh, tăng 12 lần so với cùng kỳ năm ngoái, trong bối cảnh mặt hàng này rẻ kỷ lục.

Anh là thị trường có mức tăng trưởng nhảy vọt về nhập khẩu sắt thép của Việt Nam trong khối EU. Số liệu Hải quan cho thấy tháng 8, Việt Nam nhập khẩu 1.011 tấn sắt thép các loại từ Anh, trị giá 487.224 USD, tăng 12 lần về lượng và tăng hơn gấp đôi về sản lượng so với cùng kỳ năm ngoái.

Lũy kế 8 tháng đầu năm, Việt Nam chi ra hơn 1,3 triệu USD nhập 2.155 tấn sắt thép từ thị trường này, tăng 240% về lượng nhưng giảm 16,3% về giá trị.

Sở dĩ giá trị giảm do giá thép nhập khẩu từ Anh giảm kỷ lục. Bình quân 8 tháng, giá thép đạt 613,6 USD một tấn, giảm hơn 75% so với cùng kỳ 2022.

Ngoài thị trường Anh, Trung Quốc vẫn là nhà cung cấp sắt thép lớn nhất cho Việt Nam, chiếm hơn 57% tỷ trọng. Trong tháng 8, Việt Nam nhập từ nước này hơn 834.000 tấn sắt thép các loại, tương đương hơn 536 triệu USD, lần lượt tăng trên 140% và 55% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tính chung 8 tháng đầu năm, Trung Quốc xuất sang Việt Nam hơn 4,5 triệu tấn trị giá 3,3 tỷ USD. Theo sau là Nhật Bản chiếm 16,1%, Hàn Quốc 8,9%.

Lũy kế 8 tháng, Việt Nam chi 6,5 tỷ USD để nhập 7,9 triệu tấn sắt thép các loại, giảm 3,3% về lượng và hơn 26% về trị giá so với cùng kỳ 2022.

Theo các chuyên gia, quý IV, việc đẩy mạnh đầu tư công, các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, dự án nhà ở xã hội sẽ khiến nhu cầu tiêu thụ sắt thép trong nước tăng cao.

Hồng Châu


Tiếp tục đọc

Kinh doanh

Lợi nhuận Geleximco giảm 95%

Được phát hành

on

Nửa đầu năm nay, Tập đoàn Geleximco chỉ lãi gần 16 tỷ đồng, giảm 95% so với cùng kỳ 2022.

Thông tin này vừa được Tập đoàn của ông Vũ Văn Tiền cho biết trong báo cáo gửi Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX).

Nửa đầu năm nay, Tập đoàn Geleximco lãi sau thuế 15,8 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái lãi hơn 337 tỷ đồng. Như vậy, lợi nhuận kỳ này của Geleximco giảm 95% so với cùng kỳ 2022.

Đến hết 30/6, vốn chủ sở hữu của tập đoàn này khoảng 12.800 tỷ đồng, giảm nhẹ so với kỳ trước. Nợ phải trả của Geleximco cũng giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái với khoảng 28.180 tỷ đồng. Trong đó, công ty nợ trái phiếu hơn 4.600 tỷ đồng, giảm hơn 440 tỷ đồng so với tháng 6/2022.

Từ 11/5-5/6, theo HNX, Geleximco đã 6 lần mua lại trước hạn 259 tỷ đồng với một lô trái phiếu được phát hành cuối năm 2021. Hiện tại, công ty này còn 4 lô trái phiếu lưu hành trên thị trường.

Tiền thân là Công ty TNHH Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội, Geleximco ra đời năm 1993 với vốn điều lệ chỉ 3 tỷ đồng. Đến nay, Geleximco đã trở thành một tập đoàn đa ngành, tạo việc làm cho hơn 10.000 lao động. Công ty đang kinh doanh trong 4 lĩnh vực chính gồm sản xuất công nghiệp, tài chính ngân hàng, bất động sản và thương mại, dịch vụ.

Trong lĩnh vực bất động sản, Geleximco đã phát triển nhiều dự án lớn như khu đô thị thành phố giao lưu ở đường Phạm Văn Đồng, khu đô thị Gelexia Riverside, khu đô thị Lê Trọng Tấn (Hà Nội), khu đô thị Cái Dăm (Quảng Ninh), khu du lịch quốc tế Đồi Rồng ở Đồ Sơn (Hải Phòng).

Geleximco cũng là cổ đông sáng lập, đồng sở hữu tại Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình, Công ty cổ phần Chứng khoán An Bình, Công ty cổ phần Quản lý quỹ Đầu tư chứng khoán An Bình.

Năm ngoái, Geleximco đã ký thỏa thuận thuê 50 ha đất tại khu công nghiệp Tiền Hải, Thái Bình để xây dựng nhà máy sản xuất, lắp ráp ôtô. Tập đoàn của ông Vũ Văn Tiền dự kiến đầu tư 800 triệu USD (gần 19.000 tỷ đồng) vào nhà máy này. Trong đó, giai đoạn I dự kiến vận hình từ quý III/2024, công suất 50.000 xe mỗi năm.

Anh Tú


Tiếp tục đọc

Kinh doanh

Mỳ gói Việt Nam, Thái Lan hút hàng ở Nhật Bản

Được phát hành

on

Sau khi được biết đến nhiều từ đại dịch, mỳ gói nhập từ Việt Nam và Thái Lan ngày càng được người Nhật chuộng.

Tại chợ thực phẩm châu Á ở quận Shin-Okubo (Tokyo), mỳ ăn liền có in chữ nước ngoài trên bao bì được đặt ở vị trí nổi bật gần lối vào. “Khoảng 80% khách hàng mua mỳ ăn liền”, quản lý một cửa hàng cho biết.

Thống kê của Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết nhập khẩu mỳ gói từ các khu vực khác ở châu Á đạt khoảng 8,6 tỷ yen (57,6 triệu USD theo tỷ giá hiện hành) vào năm 2022, gấp 3,1 lần so với năm 2017.

Khoảng 80% lượng nhập khẩu đến từ Hàn Quốc, bao gồm cả món Shin Ramyun cay của Nongshim. Mỳ gói đến từ Đông Nam Á đang có mức tăng trưởng đáng kể. Nhập khẩu từ Việt Nam đạt tổng cộng khoảng 500 triệu yen (3,35 triệu USD) vào năm 2022, gấp 5,6 lần năm 2017. Trong khi đó, nhập khẩu từ Thái Lan tăng gần gấp đôi, lên 510 triệu yen (3,41 triệu USD).

Mỳ ăn liền ra đời ở Nhật Bản cách đây sáu thập kỷ và ngày càng phổ biến toàn cầu. Những năm gần đây, bên cạnh hàng nội địa và Hàn Quốc, mỳ gói nhập từ Đông Nam Á ngày càng được ưa chuộng. Một phần nguyên nhân là Covid-19 khiến người Nhật không thể du lịch nước ngoài. Khi ấy, họ quyết định mua mỳ gói của Việt Nam hoặc Thái Lan để trải nghiệm chỉ sau 5 phút chế biến.

Nhận thấy các hương vị đến từ Đông Nam Á được đón nhận, các công ty Nhật Bản sản xuất mỳ ăn liền ở nước ngoài đã bắt đầu nhập sản phẩm vào Nhật Bản sau thời gian chỉ bán tại thị trường đặt nhà máy.

Acecook vào Việt Nam vào năm 1993 và hiện là nhà sản xuất mỳ ăn liền lớn nhất ở đây, với thị phần khoảng 40%. Từ năm 2018, họ bắt đầu nhập khẩu và bán đầy đủ dải sản phẩm mì Hảo Hảo được sản xuất tại Việt Nam tại Nhật Bản.

Công ty ban đầu nhắm đến việc bán cho người Việt Nam sống ở Nhật Bản, nhưng người Nhật cũng bắt đầu mua Hảo Hảo. Đến năm 2022, doanh thu hàng năm đã tăng ba lần. Gần đây, công ty nhận được thêm nhiều yêu cầu nhập mỳ gói từ các cửa hàng thực phẩm nhập khẩu lớn.

“Nhu cầu đối với thực phẩm châu Á đích thực đang tăng lên thay vì các sản phẩm phù hợp với khẩu vị người Nhật”, đại diện Acecook cho biết. Sau sự nổi tiếng của Hảo Hảo, công ty sẽ bắt đầu nhập mỳ gói thương hiệu “Mì Lẩu Thái” từ tháng 11.

Trước đó, vào tháng 7, Nissin Foods tung ra thị trường Nhật Bản mỳ gói hương vị súp Tom Yum do công ty con tại Thái Lan sản xuất. “Chúng tôi lấy ý tưởng từ việc mỳ gói của các nhà sản xuất Thái Lan được bán ở các cửa hàng thực phẩm nhập khẩu hoặc trên các trang mua sắm online ở Nhật Bản”, Đại diện công ty nói.

Hồi tháng 4, Ajinomoto cũng đã bán mỳ YumYum có hương vị Tom Yum trong một thời gian nhất định ở thị trường Nhật Bản. Sản phẩm này do công ty con tại Thái Lan sản xuất. Ở Thái Lan, YumYum chiếm hơn 20% thị phần. Sau đợt thăm dò, Ajinomoto đang xem xét bán sản phẩm này quanh năm tại Nhật Bản.

Hạn chế đi lại trong đại dịch đã đẩy nhu cầu mỳ ăn liền toàn cầu lên mức kỷ lục 121,2 tỷ gói vào năm 2022, tăng 2,6% so với năm 2021, theo số liệu của Hiệp hội Mỳ ăn liền Thế giới. Thị trường Trung Quốc – Hong Kong vẫn giữ vị trí dẫn đầu, tiếp theo là Indonesia, Việt Nam, Ấn Độ và Nhật Bản.

Mỳ ăn liền được sản xuất lần đầu tiên tại Nhật Bản vào năm 1958. Momofuku Ando, Nhà sáng lập Nissin Foods, nảy ra ý tưởng này khi đất nước đang phải vật lộn với tình trạng thiếu lương thực sau Thế chiến II.

Đến năm 1971, công ty này ra mắt sản phẩm mỳ ly đầu tiên trên thế giới. Khi có nhiều hương vị khác nhau phù hợp với từng thị trường, mỳ gói nói chung, bao gồm sản phẩm gói và ly, đã lan rộng khắp thế giới.

Phiên An (thei Nikkei)


Tiếp tục đọc
Advertisement

Xu hướng